Thứ Hai, 31 tháng 3, 2008

BÁT QUÁI ,NGŨ HÀNH

Trong vũ trụ có muôn vạn vì sao và các vì tinh tú. Vũ trụ bao la rộng lớn vô số kể, do vậy từ lâu triết học phương đông đã hình thành các thuyết về Âm Dương,
Vô cực sanh ra Thái cực, Thái cực sanh ra Lưỡng Nghi, Lưỡng nghi sanh ra Tứ tượng, rồi tứ tượng sanh ra Bát quái, bát quái sanh ra 64 quẻ dịch. Từ đây con người mới suy ra những bí mật của vũ trụ , đó là kinh dịch
Bát quái gồm có: CÀN-ĐOÀI thuộc KIM, KHÔN- CẤN thuộc THỔ, CHẤN- TỐN thuộc MỘC, KHẢM thuộc THUỶ, LY thuộc HOẢ.
CÀN hướng TÂY BẮC ; KHÔN hướng TÂY NAM; CHẤN hướng ĐÔNG; TỐN hướng ĐÔNG NAM; KHẢM hướng BẮC; LY hướng NAM;CẤN hướng ĐÔNG BẮC; ĐOÀI hướng TÂY.
Đời thượng cổ, vua Phục Hy xem thiên văn và hình tượng trái đất nhận xét. Gần là thân của mình, xa lấy muôn vật. Đúc kết những quan sát đó mà tạo thành Bát quái.
a.- Về cơ thể con người: Trong Bát quái có 8 chử: CÀN; KHÔN; CHẤN; TỐN; KHẢM; LY; CẤN; ĐOÀI. Do đó ĐẦU = CÀN; BỤNG = KHÔN; CHÂN = CHẤN; BẮP VẾ = TỐN; TAI = KHẢM; MẮT = LY ; TAY = CẤN; MIỆNG = ĐOÀI.
b.- Về quyền thuật:
ĐẦU = CÀN; BỤNG = KHÔN; THÂN = KHẢM ; MẮT = LY; từ đốt xương thứ nhất của xương cùn cho đến đốt thứ 7 của cột sống = TỐN; cột xương cổ là = CẤN; bên trái bụng là CHẤN; bên phải bụng = ĐOÀI.
Kể từ tứ chi trở xuống; Bụng = Vô cực; Rốn = Thái cực; hai quả Thận là Lưỡng Nghi; hai tay và hai chân = Tứ tượng; hai cánh tay và hai chân mổi cái có 2 khúc gập lại thành Bát Quái.
Hai bàn chân và hai bàn tay có 20 ngón, tổng 4 ngón cái của 2 bàn tay và 2 bàn chân, mổi ngón chỉ có 2 đốt, suy ra cả thảy có 8 đốt. Còn lại 16 ngón tay và ngón chân, mổi ngón có 3 đốt vậy cả thảy có 48 đốt. Hợp với 2 khúc mổi tay và 2 khúc mổi chân, cộng 8 đốt xương ngón tay cái và bàn chân cái ta có 64 đốt , phù hợp với con số 64 quẻ dịch.
Từ những ý niệm trên gọi là : Vô cực sinh ra Thái cực; Thái cực sinh ra lưỡng nghi; Lưỡng nghi sinh ra Tứ tượng; Tứ tượng sinh ra Bát quái và 8x8=64 biến theo một cấp số nhân với công bội là 2
c.- Hình tượng loài vật:
CÀN= NGỰA; KHÔN = TRÂU; CHẤN = RỒNG; TỐN = GÀ; KHẢM = HEO; LY = CHIM TRỈ; CẤN= CHÓ; ĐOÀI = DÊ
d.- Trong quyền thuật:
CÀN= SƯ TỬ; KHÔN = LÂN; CHẤN = LONG; TỐN = PHƯỢNG; KHẢM = XÀ; LY = KÊ; CẤN = GẤU; DOÀI = HẦU
Ứng dụng kinh dịch, lấy Bát quái trong thân thể là gốc ở bên trong . Bát quái bên ngoài là cái dụng của tứ chi. Sách Hoàng Đế Nôi Kinh có ghi "Thân thể con người có đủ cái gốc tiên thiên và hậu thiên, CHẤN là Tiên thiên; TỲ là Hậu thiên". Gốc là cội rể , là nguồn gốc
Ngũ Hành: Chử Hành nghĩa là Đi, là sự vận động, quá trình chuyển động các lực tác động qua lại lẩn nhau.
Vận động ngũ hành: có tương sanh tương khắc
- Tương sanh: MỘC sanh HOẢ sanh THỔ sanh KIM sanh THUỶ sanh MỘC v.v...
- Tương khắc : MỘC khắc THỔ khắc THUỶ khắc HOẢ khắc KIM khắc MỘC v.v...
Trong con người:
1.-Tạng: Mộc = Gan; Hoả = Tâm; Thổ = Tỳ; Kim = Phế; Thuỷ = Thận.
2.- Phủ: Mộc = Đởm; Hỏa = Tiểu trường; Thổ = Vị; Kim = Đại trường; Thuỷ + Bàng quang.
3.- Ngũ quang: Mộc = Mắt; Hoả = Lưởi; Thổ = Miệng; Kim = Mũi; Thuỷ = Tai.
4.- Ngũ Thể : Mộc = Gân; Hoả = Mạch máu; Thổ = Thịt; Kim = Da lông; Thuỷ = Xương tuỷ
5.-Tình cảm: Mộc = Giận; Hỏa = Mừng; Thổ = Lo; Kim= = Buồn; Thuỷ= Sợ
6.-Ngũ Âm: Mộc = Hét; Hoả = Cười; Thổ = Hát; Kim = Khóc; Thuỷ = Rên

Không có nhận xét nào: