Thứ Tư, 13 tháng 8, 2008

BÁT ĐOẠN CẨM 八段錦



Bát đoạn cẩm là một môn khí công cũng đả có một lịch sử lâu đời như Ngũ cầm Hí, Lục tự Quyết. Bát đoạn cẩm đóng góp một vai trò quan trọng trong khí công dưỡng sinh. Chữ Bát trong Bát đoạn cẩm không chỉ hiểu là số 8, 8 đoạn, 8 tiết, và 8 động tác mà còn thể hiện các yếu tố công pháp này rất chặt chẽ với nhau.
NGUỒN GỐC:
Bát đoạn cẩm lưu truyền cho đến ngày nay có rất nhiều trường phái. Nói tóm lại có 2 trường phái chính là Nam và Bắc. Các động tác Nam phái mềm mại và chủ yếu các động tác đứng được truyền lại bởi Lương thế Sương. Còn Bắc phái lấy cương làm chính, chủ yếu là dùng mã bộ do Nhạc Phi truyền lại.Trên cơ sở các tư liệu Nam hay Bắc có cùng nguồn gốc. Còn tên người sáng tạo ra hiện nay chưa có tài liệu nào nói đến , chỉ biết lưu truyền trước đời Tống, qua đến đời nhà Minh ,Thanh Bát đoạn cẩm phát triển rộng rãi. Cho nên dù Bắc hay Nam phái đều có cùng một nguồn gốc, trong quá trình truyền bá , nó sẽ dẩn đến thống nhất

8 THỨC BÁT ĐOẠN CẨM:
Khác hẳn bài Bát Đoạn Cẩm nguyên gốc, bài Bát Đoạn Cẩm quốc tế dễ tập, có cách thở đơn giản hơn và đi theo trường phái dưỡng sinh trường thọ. Nó không có tác dụng phụ. Mỗi động tác đều mang những tác dụng thực tiễn.
1. Lưỡng thủ kình thiên lý tam tiêu (Hai tay chống trời điều lý cả vùng Tam tiêu):
Tác dụng: Tam tiêu gồm Thượng tiêu: Não, hệ tuần hoàn - hô hấp; Trung tiêu: Hệ tiêu hóa; Hạ tiêu: Hệ tiết niệu - sinh dục. Chủ yếu luyện thông kinh Tam tiêu, có tác dụng giúp ăn ngon, ngủ yên, trí tuệ minh mẫn, cơ thể cường tráng, mọi suy yếu sinh lý - sinh dục được điều chỉnh. Giúp trẻ em mau lớn, phát triển khả năng học toán. Trí tuệ thanh thản, không lười biếng, linh động hơn.
- 2 tay đưa lên: hít vào, điều khí đến cả vùng Tam tiêu từ huyệt Bách hội ở đỉnh đầu đi xuống gáy và đi lên sau tai, lên đuôi lông mày 2 bên. Phải nhón chân lên.
- 2 tay đưa xuống về 2 bên đùi: thở ra, cong 2 ngón chân cái lên để kích thích các huyệt thuộc kinh Đại tràng và nhóm kinh dương trước cẳng chân.

2. Tả hữu khai cung tựa xạ điêu (Tay trái, phải dương ra như xạ điêu bắn cung):
Tác dụng: Làm mạnh 2 cánh tay, cứng cáp đôi chân. Thông kinh Đại trường (kinh ruột già) gồm 20 huyệt từ đầu ngón tay trỏ tới cánh mũi; Trị táo bón, tê bại, phong thấp nhức gân, khớp xương; liệt nhẹ nửa người.
- Tay đưa ra bắn cung: hít vào.
- Tay đưa chéo về lại trước ngực: thở ra.
3. Điều lý tỳ vị đơn cử thủ (Điều hòa tỳ vị một tay đẩy lên):
Tác dụng: Dùng luyện khí, lưu thông 2 kinh Tỳ - Vị (dạ dày và lá lách). Giúp ăn ngon, ngủ được, mau đói, đại tiểu tiện thông suốt.
- Một tay đưa lên đầu, một tay ấn xuống bên hông trái: hít vào.
- 2 tay lật lại đưa về ngang chấn thủy: thở ra.
4. Ngũ lao thất thương, vọng hậu tiều (Liếc nhìn phía sau, xua đi “Ngũ lao thất thương” - những hao mòn cho sức khỏe):
Tác dụng: Chủ luyện hệ thần kinh. Đưa máu đầy đủ lên não.
- Đầu quay qua một bên và 2 bàn tay đưa ra 2 bên đùi: hít vào.
- Đầu trở về vị trí như cũ và 2 tay đưa lên bụng: thở ra.
5. Dao đầu bài vĩ khứ tâm hỏa (Lắc đầu vẫy đuôi xua hết tính nóng nảy):
Tác dụng: Làm tăng lượng máu lưu thông, mất tính nóng nảy vì thiếu máu.
- Đầu nghiêng qua một bên: hít vào.
- Đầu trở về vị trí cũ ở ngay giữa: thở ra.
6. Bối hậu thất điên bách bệnh tiêu (Phía sau giậm gót bảy lần trăm bệnh tiêu tan):
Tác dụng: Kích thích quan trọng 2 kinh Nhâm và Đốc (đường đi giữa trước và sau thân) tăng sinh lực. Có tác dụng hồi sức, thân thể cường tráng.
- Nhón chân lên, 2 tay ấn xuống: hít vào.
- Hạ chân xuống, 2 tay đưa lên: thở ra. Động tác này làm tối thiểu 30 lần.
- Nhón chân lên cao và chạm mạnh gót chân xuống đất: thở bình thường. Tối thiểu làm 100 lần.
7. Toàn quyền nộ mục tăng khí lực (Nắm chặt tay, trợn mắt tăng khí lực):
Tác dụng: Làm tăng khí lực do tay chân và thân eo liên lạc với nhau.
- Tay thủ ở hông: hít vào.
- Tay đấm ra: thở ra; rồi ở tư thế này hít vào và tay kia đấm ra và thở ra.
8. Lưỡng thủ phang túc cố thận eo (Hai tay phang xuống chân, bền thận và giữ eo):
Tác dụng: Lưu thông mạch nhâm - đốc và thận kinh. Giúp gân cốt mềm mại, dẻo dai, tủy sống được săn sóc, tinh thần vui vẻ sảng khoái. Bổ thận tráng dương.
- Thân đưa từ dưới lên và ưỡn ra sau: hít vào.
- Thân cúi xuống, vuốt 2 chân: thở ra.
CHỐNG CHỈ ĐỊNH
Không thích hợp cho người đang bệnh nặng.
Tuy nhiên việc thực hành Bát Đoạn Cẩm không thể tiến hành tùy tiện mà phải được một vị thầy đã kinh qua công phu nội tạng thì mới tránh được tai họa lớn cho hành giã.
Theo khách quan của tôi thì Bát đoạn cẩm, Ngũ cầm hí, Dịch cân kinh, Lục tự quyết cũng gần với hệ thống Hồng quyền La phù Sơn có Đơn và Bộ Nội công, trong Hồng quyền có phần khó tập luyện hơn và nhiều hơn ( 36 đơn và 12 bộ nội công)
Sau đây là videoclip cho 8 bài luyện khí công Bát Đoạn Cẩm hiện đại


1./LƯỞNG THỦ KÌNH THIÊN LÝ TAM TIÊU :


2./TẢ HỬU KHAI CUNG TỰA XẠ ĐIÊU:

3./ĐIỀU LÝ TỲ VỊ ĐƠN CỬ THỦ:


4./NGŨ LAO THẤT THƯƠNG, VỌNG HẬU TIỀU:

5./ DAO ĐẦU BÀI VĨ KHỨ TÂM HOẢ:

6./ BỐI HẬU THẤT ĐIÊN BÁCH BỆNH TIÊU:

7./TOÀN QUYỀN NỘ MỤC TĂNG KHÍ LỰC:

8./ LƯỠNG THỦ PHANG TÚC CỐ THẬN EO:

Thứ Hai, 11 tháng 8, 2008

NGŨ CẦM HÍ


Từ những ngàn năm trước đây, người Trung Hoa đã biết con người có một năng lực nội tại, nếu biết cách phát huy những khả năng tiềm ẩn bên trong con người thì sức khoẻ sẽ trở nên mạnh hơn, phòng tránh các bệnh tật, năng lực siêu nhiên đó là Khí, Khí là nguồn năng lực sống, nó luôn luôn luân lưu trong khắp cơ thể, đi qua các kinh mạch, vào phủ tạng. Nó được thể hiện dưới cả hai dạng Vật chất và Tinh thần. Ngũ cầm hí là môn Khí công động dựa trên cơ sở vận động của 5 loại vật: Hùng (Gấu), Hạc (chim Hạc), Hổ (Cọp), Viên (Khỉ) và Lộc ( Nai). Luyện tập Ngũ cầm hí có tác dụng khai thông kinh mạch, điều hoà khí huyết, từ yếu tố này sẽ nâng cao thể trạng cơ thể giúp người tập luyện khoẽ mạnh, vững chắc, nhanh nhẹn.
Ngày nay, khi cuộc sống mỗi ngày con người ta sống trong một thế giới văn minh hiện đại, họ quên đi những cái của tiền nhân để lại , họ chỉ biết tiền tài danh vọng và họ muốn những cái có mau chóng không tốn nhiều thời gian, nhưng điều này đả làm mất đi những tinh hoa của tiền nhân để lại cho con người một bài thuốc quý không phải mất tiền mua , muốn mua cũng không phải là có được, mà là phải do hành giả đó có chuyên cần tu luyện thì mới có. Do vậy khi đời sống đã nâng cao thì ta lại càng nên chú ý nhiều hơn đến vấn đề sức khoẽ hơn. Sức khõe không phải tự nhiên mà có trong một sớm một chiều, học vài ba ngày mà thành công, hoặc mượn một năng lực siêu nhiên nào đó làm cho mình mà hiện nay rất phổ biến khắp nơi. Đó chỉ là tự kỵ ám thị mà họ cho là sức khõe siêu phàm, nếu điều này mà dể dàng thì có lẽ xã hội này chẳng có ai bệnh tật, bác sĩ thất nghiệp bỏ nghề y. Do vậy chuyên cần tập luyện Ngũ cầm hí đòi hỏi phải tập luyện lâu dài theo thời gian mỗi ngày thăng tiến chứ không thể nói tập cho vui hay tập theo phong trào, nếu tư tưởng thiển cận như vậy cho dù có tập cũng khó thành công
NGUỒN GỐC:
Có nguồn gốc từ thời cổ đại.Theo ghi chép lại trong sử sách thì vào thời đó Trung quốc có nhiều sông ngòi, khí hậu ẩm thấp làm cho nhiều cư dân nơi đây mắc bệnh về khớp, để khắc phục điều này người dân nơi đây đã tạo ra các vũ điệu giúp mọi người vận động một cách tự nhiên, những vũ điệu này là những dấu hiệu đầu tiên của khí công cổ đại Trung quốc.
Căn cứ vào tư liệu bây giờ thì sớm nhất là từ thời Nam Bắc triều, trong "dưỡng sinh diên mệnh lục" của Đào hoàng Cảnh viết, cuối đời Đông Hán có thể cho rằng các động tác Ngũ cầm hí do Hoa Đà sáng chế, nhưng độ khó tập luyện rất lớn. Từ đó về sau, trong các tác phẩm nổi tiếng như "Di môn quảng độc - Xích phượng thuỷ" của Chu Lữ Thanh đời Minh. "Vạn thọ tiên thư - Đạo dẫn Thiên" của Tào Vô Cực đời Thanh. "Ngũ cầm Hí công pháp đề thuyết" của Đế tích Phan . . . đều dùng hình thức dùng chữ và hình tương đối chi tiết để mô tả công pháp luyện tập Ngũ cầm hí. Những công pháp này so với "Duỡng sinh diên mệnh lục"đều có những khác biệt thêm bớt tương đối lớn, động tác Ngũ cầm đều là đơn thức. Những tư liệu quý giá này là những căn cứ quan trọng cung cấp cho đời sau nghiên cứu
Với đặc điểm của Ngũ cầm Hí, phối hợp học thuyết tạng phủ kinh lạc của đông y, không những có tác dụng chỉnh thể đối với sức khoẻ, mà còn có công hiệu riêng mỗi một Hí, mô tả cái uy mãnh của con Hổ; cái an nhàn thoải mái của con Nai;cái trầm tỉnh của con Gấu;cái linh hoạt của con Vượn; cái nhẹ nhàng sắc bén của con Chim Hạc, ẩn chưa thần thái của Ngũ cầm Hí là hình thần đều chu đáo, ý khí theo nhau, nội ngoại hợp nhất
Bài viết này dẩn trích từ Chu Nhân Thuận
VIDEO CLIP NGŨ CẦM HÍ:

Thứ Sáu, 8 tháng 8, 2008

LỤC TỰ QUYẾT


Lục tự quyết còn gọi là Lục tự pháp là một bài tập khí công dưỡng sinh đả có từ lâu, là một phương pháp tập luyện khí công dưỡng sinh dựa trên cơ sở học thuyết ngũ hành. Từ xa xưa Lục tự quyết chỉ lưu hành trong Đạo giáo, ngày nay nó được thống nhất hoàn thiện và được coi là một trong những môn khí công dưỡng sinh và dành cho những người ham thích nghiên cứu luyện tập để tăng cường sức khoẽ. Phương pháp luyện tập hít vào bằng mũi thở bằng miệng và phát ra âm thanh 6 chử (lục tự). Mặc dù ngày nay có nhiều quan điễm khác nhau về cách phát âm, nhưng dù thế nào thì chẳng ai phủ nhận được tác dụng của Lục tự quyết đối với sức khoẽ của con người, đó chính là lý do ngày nay có nhiều người chọn Lục tự quyết để làm môn thể dục dưỡng sinh.
NGUỒN GỐC:
Lục tự quyết bắt đầu xuất hiện từ thời Nam Bắc Triều của đât nước Trung quốc, được ghi chép trong "Dưỡng tính diên mệnh lục"của Đào hoàng Cảnh, là một trong những nhân vật đại diện cho phái Mao sơn của Đạo gia, cũng là một danh y nổi tiếng của Trung quốc.
Sau Đào hoàng Cảnh, có rất nhiều môn phái phát triển và bổ sung. Trong đó tiêu biểu là môn pháp ngồi Thiền của Phật giáo được các cao tăng đời Tuỳ ghi trong "Đồng mông chỉ quan". Nhà y học nổi tiếng đời Đường là Tôn tư Mạc cũng phát huy phương pháp Lục tự quyết của Đào hoàng Cảnh trong " Bí cấp thiên kim yếu phương", ông nhấn mạnh đến việc thở từ từ; Hồ Âm một học giả Đạo giáo đời Đường đả thay đổi phương pháp kết hợp Lục tự quyết với Ngũ tạng "Hoằng đình nội cảnh ngũ tạng lục phủ bổ tiết đồ"
"Thái thượng ngọc trục Lục tự khí quyết" của Trâu phát Am đời Tống , viết chi tiết nhất về Lý luận và phương pháp của Lục tự quyết, đưa ra những yêu cầu khá cụ thể về phương pháp hít thở và nhả âm. Ngoài ra trong sách ông bổ sung thêm thế dự bị như chống hai hàm răng vào nhau đẩy và nuốt nước bọt.
Từ những tư liệu hiện có chúng ta có thể thấy, trước thời nhà Minh, Lục tự quyết chưa được kết hợp với các động tác của cơ thể, khí đó chỉ là môn khí công . Đến đời nhà Minh, Lục tự quyết kết hợp với các động tác cơ thể, phối hợp hít thở và đạo dẫn. Tằng Tháo đời Tống đã đưa Lục tự quyết vào bổ trợ cho Bát đoạn cẩm , đó chỉ lả ứng dụng Lục tự quyết chứ không phải phương pháp đạo dẫn.
Qua những tư liệu về nguồn gốc của công pháp này, mặc dù các phương pháp khí công dưỡng sinh như : Dịch cân kinh, Nga Mi trang, Hình Ý quyền, Bát quái chưởng, Đại nhạn công đều ứng dụng Lục tự quyết, tuy nhiên nó không hoàn toàn giống với phương pháp Lục tự quyết nguyên bản trong võ thuật nó cũng là phương pháp luyện thanh trợ khí.
Những cơ sở đã nêu trên, Khí công dưỡng sinh Lục tự quyết đã quy chuẩn hoá các luận chứng công pháp khí công dưỡng sinh rất khoa học và thuận tiện đông đảo quần chúng cùng nhau tập luyện công pháp này

Thứ Năm, 7 tháng 8, 2008

禪 THIỀN

禪 THIỀN : chỉ là một thuật ngữ, đã được nhiều tôn giáo và các môn phái võ thuật sử dụng để chỉ ra một cách tu tập khác nhau, nhưng để đi đến một mục đích duy nhất là "Giải thoát", giải thoát mọi phiền não trong tâm trí, những ưu phiền buồn bực, bên phật giáo thì đi đến "Giác ngộ", có người thì đạt đến quyền năng siêu nhiên như các vị Lạt Ma ở Ấn Độ. Ở Trung quốc Thiền có ý nghĩa rộng hơn rất nhiều nó bao gồm phéo tu cũng như quan niệm về hơi thở Nhập tức với mục đích làm cho Tâm tỉnh từ phép thiền do Bồ Đề Đạt Ma truyền lại , có người dùng phương pháp thiền để chữa bệnh, do đó tuỳ căn cơ của từng người mà sự nhận thức khác nhau về kết quả tu luyện . Nói chung tất cả các dạng tu luyện Thiền là hướng con người ta đến một trạng thái tập trung, lắng đọng như một hồ nước sâu mà con người ta có thể nhìn thấy đến tận đáy hồ, mặt hồ không dao động, tâm bình yên và lắng đọng, có thể tập nhiều cách khác nhau như uốn vặn thân thể của Yoga, phật giáo thì ngồi kiểu hoa sen, có người thì đứng, đi tuỳ theo chương trình của từng tôn giáo hay môn phái võ thuật
Chúng ta thường đến với Thiền vào những lúc lo toan, thất vọng, căng thẳng, hoài nghi hoặc già lão, do vậy Thiền mặc nhiên là một phương thuốc chữa trị, tiêu trừ mọi phiền não. Đây có phải là cứu cánh cốt lõi của Thiền hay không?
Chúng ta thường thấy Thiền qua những câu chuyện, giai thoại của các bậc Thiền sư ở thời cổ đại, đây cũng được coi như là con đường nhẹ nhàng, đơn giản , cơ bản để xâm nhập thế giới thiền. Cũng như khi cơ thể bạc nhược, đau yếu hoặc vùi thân xác vào rượu thịt mỗi ngày thâu đêm đến sáng với dục vọng để rồi thức tỉnh chạy đi tìm bửa cơm chay thanh đạm, những cách dưỡng sinh vài ba ngày, cái vòng luẫn quẩn chẳng đi về đâu , chẳng được lợi lộc gì và ngồi than thân trách phận sao mình khổ để rồi một giây phút nào đó Tỉnh ngộ ra thì đã muộn màng
Do vậy Thiền là một cách tu sữa con người và Thiền làm cho ta thấy được sự yên bình trong tâm, tinh thần sãng khoái không vướng bận bất cứ điều gì ở xã hội cuộc sống sẽ hạnh phúc hơn và thương yêu mọi người. Chúng ta cũng cảm nhận được phong vị Thiền của từng người đến với ta một cách hoan hỷ, ta sẽ nhận ra cỏi nhân gian nhỏ bé hổn độn này đáng được trân trọng và đáng được yêu quý cả những gì đáng ghét
THIỀN LÀ GÌ?
Như trên đả nói Thiền chỉ là một từ ngữ tuỳ mổi quốc gia gọi nó ,vậy làm thế nào Định nghĩa được Thiền?
Thiền không phải hiểu bằng những định nghĩa thông thường,Thiền không phải là một quang cảnh để miêu tả, không phải là một phương pháp để trình bày, cũng không phải là một biểu tượng triết học để hình dung hoặc một nghi thức tôn giáo để tu tập. Ta không dùng ý thức để hiều, càng không dùng ngôn từ để diễn đạt lý Thiền. Cho nên, càng suy nghĩ, càng tranh luận về Thiền thì người ta càng vọng tưởng, không cách nào thâm nhập được thực chất của chân lý tuyệt đối này.
Một cách khái quát, Thiền có thể hiểu là trạng thái tâm linh cao vút của một hành giả đã chứng ngộ. Với nghĩa này Thiền cũng là đạo, là Phật, là Tâm... Thiền cũng có thể được nhìn dưới một góc độ gần gủi hơn, là trạng thái của tâm khi nghe hay biết tất cả sự vật hiện tượng xãy ra xung quanh, mà không có một ý niệm phân biệt so sánh. Người có Thiền chứng là người không bị dính mắc đối với mọi thăng trầm vinh nhục của cuộc đời, không động tâm đối với tất cả các pháp thế gian và xuất thế. Có thể nói, lúc nào và ở đâu tâm ta thanh tịnh mà thường biết, ta sẽ có kinh nghiệm trực tiếp Thiền là gì?. Như vậy, Thiền nằm trong mọi sinh hoạt thường nhật, rất đơn giản, rất thực tế và rất gần gủi với cuộc sống con người

KỸ THUẬT THIẾT TUYẾN QUYỀN

Thiết tuyến quyền là một quyền thuật của Thiết Kiều Tam(1813-1886) sáng tạo ra là một quyền sư nổi tiếng trong giới võ thuật Quảng đông thời đó, ông là đệ tử tâm đắc của Hoà thượng Giác Nhân ở Thiếu Lâm, Thiết Kiều Tam có rất nhiều đệ tử nổi tiếng khắp Trung quốc, có đệ tử là Lâm phúc Thành và Lâm phúc Thành truyền Thiết tuyến quyền cho Hoàng Phi Hồng và Hoàng Phi Hồng truyền lại cho Lâm thế Vinh và từ đó cho đến ngày nay có rất nhiều người luyện tập Thiết tuyến quyền
Nhưng môn tập thiết tuyền không phải là dể luyện tập, bởi do cách tập luyện này phải đeo vòng sắt hoặc đồng, mổi 1 vòng thiết tuyến nặng tối thiểu 350 gram, mổi tay đeo ít nhất 2 vòng, tối đa 5 vòng( tuỳ thể trạng cho từng người thì vòng nặng lên) đòi hỏi người tập luyện phải có một công phu thể lực tối thiểu, nếu chỉ biết theo qua sách vở hay film ảnh mà tập theo thì nguy hại đến cơ thể, do vậy nếu theo đuổi cách tập này phải có người hiểu biết tường tận các yếu lĩnh kỹ thuật thì mới tập được, do vòng thiết tuyến là kim loại nên khi vận động kình lực sẽ phát ra âm thanh và ma sát trên hai cánh tay khi vận động quyền pháp sẽ tạo ra sung điện từ chạy trên cánh tay, nếu người tập luyện không biết cách tập thi càng tập luyện thì cảm thấy mỏi mệt và các gân cơ mỏi nhừ, đó là hiện tượng do các vòng tác động lên cơ nhục mà cơ nhục không hấp thu được nên tạo ra phản ứng đau nhức mệt mỏi và ảnh hưởng đến hệ thần kinh thực vật, do vậy nên người tập luyện thiết tuyến phải có sự hướng dẫn của huấn luyện viên kinh nghiệm, không phai ai muốn tập cũng được mặc dù bài tập này la bài tập luyện về khí công, nội công và cũng là bài tập chữa bệnh
Do vậy ta nói đó là bài tập chữa bệnh thì cách chữa như thế nào và cách tập ra sao là do người huấn luyện viên có kinh nghiệm về khí công, nội công hướng dẫn tuần tự phương pháp cho từng người từng thể tạng và cho từng giới tính v.v...

Thứ Bảy, 2 tháng 8, 2008

PHỤC HỔ QUYỀN



Phần 1:



1./Hợp cước ly khai nhất thốn khoát:

Lập tấn: Đầu thật ngay thẳng 2 chân mở ngang vai, bàn chân song song, 2 cánh tay thả lỏng bên hông, mắt nhìn thẳng phía trước

2./ Lưỡng thủ tra quyền tàng tại yêu:

từ từ nâng 2 cánh tay lên song song mặt đất cánh tay ngang vai 2 chưởng tâm úp xuống, thu nhanh 2 chưởng về eo thành quyền, đây gọi là phục hổ

Bước chân trái lên phía trước, đồng thời quyền phải đánh ra sau, quyền trái đánh thành chưởng cạnh bàn tay ( thiết chưởng) tới trước ( tấn pháp bước tới trung bình và trả về chẩu mã)

3./Hư bộ thôi chưởng song quyền

Thu quyền phải và chưởng trái về trước ngực

bước lên chân phải tiếp bước chân trái lên, quyền phải đánh vòng móc tới

giựt chỏ phải ra sau chưởng trái ém vào đầu quyền phãi rút chân trái trước lùi về chẩu mã toàn thân hơi chuyễn về sau và đánh tả chưởng hửu chưởng( tấn chẩu mã, tả và hữu chưởng lúc này các mũi ngón tay chỉ xuống )

4./ thu chưởng trái và quyền phải về ngực (chưởng phải biến thành quyền) thành thế bái tổ

Rút chân trái về phía sau 1 bước dài đồng thời rút chân phải về song song chân trái, 2 quyền lúc này phải cuộn lại về tư thế hồi quyền tại eo, 2 bàn chân khít nhau và đứng thẳng lên

5./Mã bộ thiết chưởng

mở trung bình tấn 4 bước và khoá cổ chân lại, mở hết chân tấn thì đồng thời đánh 2 chỏ lên từ eo ngang tầm của vai, 2 đầu quyền hướng ra sau

6./ Trầm thanh nhất định chỉ chường thiên:

a./xếp hai tay quyền chéo trước ngực ( phải trong trái ngoài) giựt 2 chỏ ngang qua hai bên trái phải.

Mở tay quyền thành tay hổ ( ngón trỏ thẳng) đẩy ra hướng xuống dưới ngang tầm bụng

- đồng thời xoay tay hổ trái khoát vòng qua bên phải đánh đồng thời 2 tay hổ ra phía trước ( xả hết vai) ngón trỏ dựng đứng hướng thiên ( hổ quyền đánh ra tay không thẳng vận kình đánh tay sẽ tự thu về)



Tứ chỉ chường thiên, thiên thượng thiên

Trầm kiên đối bác thị chơn ngôn

Mạc thoại Hồng quyền vô diệu pháp

Thiết Tý Thiền sư đã thị ngôn

Ý 4 câu trên muốn nói: Khi chỏ hạ xuống, vai trầm thi 4 ngón tay sẽ hướng thiên, đó là huyền diệu thủ pháp của Hồng quyền mà Thiết Tý Thiền sư đã nói, muốn phát được kình ta phải luyện tập thủ pháp 4 ngón tay hướng thiên.

b./ Đánh bật tay hổ ra sau từ dưới lên đưa hai chỏ ra trước , đồng thời rút chỏ xuống ngang tầm ngực và từ từ đẩy tay hổ ( ngón trỏ hướng thiên) khi hai tay gần thẳng dùng kình đẩy mạnh ra và đánh bật tay hổ lên lần thứ 2 hai(giống động tác trên), hạ chỏ xuống đẩy hai tay chưởng tới trước, rút chưởng về đẩy chưởng thẳng tới

(Động tác đẩy chưởng này 3 lần)

7./ Mã bộ song chỉ tiêu

Động tác rút hai chưởng về và phóng hai chưởng úp tới bằng các mũi ngón tay, đồng thời miệng thở ra tiếng “xuýt”

8./ Mã bộ thượng song kiều

rút hai chưởng về ngực (phải ngoài trái trong 2 chưởng đan chéo trước ngực) 2 chưởng đẩy lên trời ngang tầm đầu (chưởng đẩy lên phải xoắn)

9./Song kiếm thiết kiều

Xếp hai chưởng xuống chéo ngang tầm mặt phải trong trái ngoài , rút hai chỏ về sát nách từ từ đẩy hai chưởng ra bằng mủi ngón tay hướng tới trước 2 chưởng đẩy ra song song

10./Tay hổ trái về bên phải

Khoát quyền phải qua trái ( người hơi đổ về trái) đồng lúc đổ người thì xoay liền về bên phải , đẩy tay hổ trái về bên phải cổ tay xoắn các ngón tay nằm ngang, cùng động tác trên tay hổ phải ém trước ngực chỏ nâng lên bằng vai ( lúc xoay đổi thành âm dương tấn)

11./Tay hổ phải phía trước

Xoay về bên trái (phía trước) khoát chưởng trái về trước ngực bên trái đồng thời khi khoát chưởng người đổ về bên trái (âm dương tấn), lúc xoay cũng là lúc chưởng phải lật ngữa xoay theo nâng chưởng từ dưới lên hướng phía trước lệch về bên trái

12./ Thu chưởng phải và trái về phía trước (về trung bình tấn) chưởng phải trên trái dưới hai chưởng tâm úp xuống đất đẩy thiết chưởng tới trước

13./ Chưởng phải đánh vòng từ phải qua trái xuống dưới, chưởng trái đánh vòng từ dưới bên phải khoát lên ( hai tay đánh vòng tròn hai lần)

14./ Sau khi đánh hai vòng tròn thi kéo hai quyền về eo thu chân về lập tấn bước chân trái lên về phía trước, đồng thời rút chân phải đá thốc tới( hai tay quyền vẩn đặt ở eo)

15./ Hạ chân phải xuống thành trung bình tấn mắt nhìn phía trước, bước chân phải trường, đổ người tới phía trước thành đinh tấn rút hai quyền lên ngang ngực mở xoè ra thành chưởng đẩy xuống phía trước

16./Trở về trung bình tấn đồng thời kéo hai tay về song song hai vai, hai chưởng tâm đối xứng xoay qua trái úp hai chưởng lại trước ngực đồng thời đổ người sang phải hướng phía trước(âm dương tấn) , hai chưởng để trước ngực đẩy thẳng tới phía trước ngang tầm đầu

17./ Đánh chéo hai tay( phải trên trái dưới) xoay qua bên trái về trung bình tấn đồng thời kéo hai chưởng về sát nách, người hơi đổ về bên trái ( phía sau) đồng thời xoay về bên phải đổ người thành âm dương tấn đẩy nhanh hai chưởng song song tới trước



PHỤC HỔ QUYỀN

Phần 2:


18./ Rút chưởng trái về eo, và chưởng phải đồng thời bước chân trái lên phía trước thành đinh tấn Hai chưởng lúc nay về tư thế Hổ phục, chưởng phải từ dưới đẩy ra thì thành tay hổ chưởng trái ém trước bụng


19./ Kéo chưởng phải về hông, chộp chưởng trái qua phải đồng thời kéo về hông bước chân phải lên đẩy chưởng phải tới thế chụp tay hổ


20./ khoát chưởng trái xuống eo đổ người xéo 1 góc 45 độ bên phải chân đinh tấn chưởng phải ém về bên trái , chưởng trái từ eo đẩy lên vê hướng xéo chộp thành tay hổ


21./ Khoát tay hổ trái qua bên phải rồi kéo về hông, đồng thời chưởng phải đánh lên tầm đầu kéo về hông trái hạ tấn xuống, đẩy tay hổ trái từ trong ra


22./ Xoay toàn thân về bên phải hướng phía trước, đổ đinh tấn về chân trái, đẩy chưởng phải từ dưới lên


23./ vét chưởng phải qua trái rút về eo hạ xuống chẩu mã đánh thốc tay hổ trái từ dưới lên


24/ hạ chưởng trái xuống rút chân phải lên đá tạt ngang qua bên trái bằng lòng bàn chân, chưởng trái và phải kéo về eo phải


25./ Khi hạ chân phải xuống đất chéo chân về bên trái đồng thời rút chân trái di chuyễn bước qua trái hạ mông xuống, lúc này chưởng trái và phải đặt tại eo, ếm chưởng trái xuống, đẩy chưởng phải về hướng trái bằng tay hổ, đồng thời đổ người về hướng trái âm dương tấn chân trái trứơc


26./ Rút chân phải về chéo chân trái chưởng trái đẩy ngang trước ngực, chưởng phải kéo về eo


27./ rút chân trái ra bỏ chéo trước chân phải, chân phải kéo ra trung bình tấn, 2 chưởng đặt bên eo trái, đổ người về bên phải, chưởng phải ém trước bụng chưởng trái đẩy từ trong ra về bên phải lúc đẩy chưởng về phải người đổ ra âm dương tấn về bên phải


28./ Rút chân trái về gần chân phảigạt tay hổ trái xuống eo trái, đẩy tay hổ phải lên đồng thời lắc eo vận kình vào chưởng phải chuyễn thân pháp rút chân phải chuyễn thân qua trái, chưởng trái gạt xuống chưởng phải thu về eo rút chân trái chuyễn qua trái đưa chưởng trái về eo phải , đổ người về bên trái 1 góc 45 độ, chưởng trái ém dưới bụng chưởng phải đẩ về hướng 45 độ


29./ Khoát hai chưởng từ hướng trái vòng xuống qua bên phải, đồng thờu cũng đổ người về bên phải, chưởng trái rút về eo thành quyền, đánh chưởng trái về phía trước tay hổ (lúc này đứng âm dương tấn đổ người về bên phải)


30./Rút chân trái về chân phải bước lên phía trước thành đinh tấn, chuyễn tay hổ xuống rút về eo thành quyền, quyền phải từ eo đấm tới trước


31./ Xoay thân về bên phải đồng thời Rút quyền phải vê trước ngực chéo hai tayquyền trái mở ra ở ngoài quyền phải mở ra ở trong đánh chưởng trái về phía trước bằng mũi bàn tay, quyền phải đánh ra sau


32./ Rút chưởng trái về nách phải đồng thời đẩy ra song song với quyền phải tới trước


33./ Cuộn hai quyền lại 1 vòng rồi thu về eo rút chân trái về song song và đứng thẳng lên rút 2 quyền lên rồi mở tay chưởng đẩy xuống ( hết) chào

THIẾT TUYẾN QUYỀN


PHẦN I:


DỰ BỊ THỨC


Đứng thẳng hai chân như tư thế nghiêm , chào, mở gót chân cho 2 chân bằng vai


Thức 1: Kỉnh lể khai quyền:


Hai chân song song bằng vai, chân trái bước lên mũi chân chạm nhẹ xuống đât, chân phải rùn xuống và hạ thấp mông ( chẩu mã tấn thấp), cùng thời điểm di chuyễn chân trái là đánh quyền trái ra thành chưởng tới trước, quyền phải cùng lúc đẩy tới thành thế chào ( Tả chưởng hửu quyền)


-Khi hai chưởng và quyền đẩy ra và hít vào 1 hơi, ngậm kín miệng đưa hơi này xuống đan điền, trầm vai , mở lưng ,chân tấn sau ( phải) vững chắc, thần sắc uy nghiêm tâm không động , mắt nhìn thẳng


Thức 2: Nhị hổ tiềm tung:


Đang ở thức trên hai tay xoay chuyễn đưa chưởng tâm lên và nắm lại thành quyền kéo về nách, đồng lúc chân trái rút về gần chân phải và đứng thẳng lên, hai quyền từ nách hạ xuống bên eo sau lưng


- Lúc đứng lên thở hơi ra tiếng xì xì nhẹ nhẹ, lúc này ưỡn ngực tới và vận lực hai bên đùi


- đang trong tư thế này, ngực ưỡn, mắt nhìn thẳng đầu ngay ngắn , miệng ngậm kín, Mũi hô hấp 3 lần hít vào thất sâu rồi thở ra thật dài


Chú ý: thức thứ 2 này giấu 2 quyền ra sau.


Thức 3: Song kiếm thiết kiều:


Vẩn đứng nguyên vị như trên thức trên, hai quyền đang giấu sau lưng từ từ đưa lên và mở từng ngón tay thành chưởng đẩy tới trước bằng cạnh chưởng ( 2 chưởng tâm đối nhau) đồng thời miện thở ra, song chưởng theo hơi thở mà từ từ đẩy tới trước và phát hơi ra tiếng “hà hà”


Chú ý: Khi hai chưởng đẩy ra tới trước cùng lúc thở ra la lúc này ngực khép lại hai vai mở ra


Thức 4: Lão tăng khiêu đảm:


Vẩn đứng nguyên vị, song chưởng lật ngữa chưởng tâm lên, chia làm 3 phần như sau:


- nắm tay lại thành quyền


- rút hai cánh tay về mở ra 2 bên vai


- 2 quyền co lại


Đồng lúc này thở hơi ra tiếng “xì” ngực đẩy tới, 2 vai sau khép lại


Thức 5: Kinh hồng liễm dực:


Vẩn đứng nguyên vị, 2 quyền hạ từ trên vai xuống đến eo thì ngưng thành song chưởng mũi chưởng hướng ra ngoài cườm tay dính sát eo , miệng phát ra tiếng “xì”


Thức 6: Tả hữu thốn kiều:


Vẩn đứng nguyên vị, song chưởng ở eo nâng lên ngang bằng vai, mở rộng lồng ngực, đồng thời đẩy 2 chưởng về hai bên, chưởng tâm úp xuống đất , miệng thở ra tiếng “xì”


Thức 7: Tam độ châu kiều:


Vẩn đứng nguyên vị, hạ chỏ xuống, bấm chỉ pháp từ từ co vào gần vai miệng thở ra tiếng “ xì”, đồng thời chầm chậm đẩy ra và kéo vô , dộng tác này làm 3 lần


Chú ý: Nếu luyện tập lâu ngày có thể tụ khí ở huyệt Đản Trung.


Thức 8: Đại tiên cung thủ:


Vẩn đứng nguyên vị,, tay phải đổi lại thành quyền, tay trái thành chưởng, đồng thời từ từ đem tới trước


- Tiếp theo tả chưởng biến thành quyền, để rồi 2 quyền tả hữu hạ xuống buông lỏng và thâu về sau không phát lực, giống như thức Nhị hổ tiềm tung


Thức 9: Nhị tự kiềm dương mã:


Vẩn đứng nguyên vị, 2 quyền đả thu về sau lưng, hai mũi chân chấm đất gót nhón lên và xoay gót ra ngoài sau đó xoay mũi chân ra độ 20cm


- Tiếp theo chân rùn xuống một chút, hai gối co , hai vế mở rộng. rút hậu môn khoá mông, vận lực vào 2 bắp chân dưới, 10 ngón chân bám cứng mắt đất hai tay và miệng không phát lực ( miệng ngậm co lưỡi lên nóc vọng và nuốt nước bọt


Thức 10: Yểm hộ đơn điền:


Vẩn đứng nguyên vị, miệng ngậm kín mũi thở ra có tiếng”u”. Song quyền từ sau lưng đẩy từ eo ra và chồng hai cánh tay lên nhau, tay phải dưới tay trái, đặt trước huyệt đan điền, làm thành thế yểm hộ.


Chú ý: Trong khi vận dụng hai tay che vùng huyệt đan điền, châm cứu còn gọi là Quan nguyên, nơi tụ khí lực. khi tập thế này ta hít một hơi thật sâu từ mũi đến đan điền gữ khí tại đây 1 chút rồi thở ra bằng mũi không cần thở mạnh.

Thức 11: Trừu thủ hộ hung:

Vẩn như thức trên hai chân vẩn giử thế nhị tự kiềm dương mã. Mở miệng thở ra thành tiếng “hà”, hai chỏ co lại và nâng lên gần cổ quyền phải ở ngoài móc vào, quyền trái ở trong ngoéo ra
- Ngực lúc này khép lại và mở rộng lưng ra, lưng cứng và chắc nên gọi là hộ hung


Thức 12: Lưỡng thủ già thiên:


Vẩn theo thức trên, miệng thở ra trược khí như hút gió. Vận lực vào chỏ, lưỡng quyền mở ra phân nữa, tay trái từ trong đẩy ép ra, tay phải ở ngoài móc vô đồng thời đưa lên tầm chân mày thì ngưng


Lúc nâng lên hai chân tấn rùn xuống như trung bình tấn, luc nay tập trung khí vào hai chỏ, ngực nâng lên , vận gân hai bên sườn rút hậu môn lại


Thức 13: Tần lương hiến giản:


Vẩn theo thức trên chân không thay đổi. Vận lực vào hai cánh chỏ hai tay đang ơ trên chân mày đem xuống, miệng thở thành tiếng “xì”. Trong lúc 2 chỏ hạ xuống hết trước ngực thì đồng thời thở trược khí ra lúc này cac ngón tay mở ra trong tư thế như nâng một vật nặng


Chú ý: Khi hít vào thì nén ở cơ hoành và thở ra bằng miệng nhẹ nhàng


Thức 14: Ngã ưng phốc thực:


Chân vẩn giữ thức “nhị tự kiềm dương mã” hạ mông xuống thật tấp , đầu cất lên, hai tay xo era hai bên , chưởng tâm lật ngữa lên trời, miệng ngậm kín


Thức 15: Bách kiều:


tiếp tục thức trên: Toàn thân đứng lên thế đứng “nhị tự kiềm dương mã”, hai tay rut về trước ngực, hai chỏ hạ xuống hai chưởng lất ngữa lên trời như nâng 1 vật nặng đồng lúc nâng thở ra một tiếng “xuy”


Chú ý: Khi thở ra hay hít vào và cac âm thanh phát ra là mỗi sự vận chuyễn nội lực bên trong


Thức 16: Định kim kiều:


tiếp tục thức trên: bộ chân vẩn như vậy. Vận lực vào cổ cườm tay và hai ngón tay cái song chưởng đẩy tới trước , đồng thời phát ra tiếng “hà”


Chú ý: khi vận lực đẩy ra bàn tay xoè khí từ nội tạng phóng ra theo các đường kinh mạch và làm cho sự vận dụng này hai bàn tay rắn chắc và đây là thiết tuyến quyền


Thức 17: Hổ tiếu long ngâm:


Hai chân vẩn thế nhị tự kiềm dương mã , hai mũi chân mở ra đổ gót thân rùn xuống thành thế tứ bình mã, đồng thời co hai chưởng , hai chỏ đưa ra, 2 chưởng tâm ngữa lên đặt gần mép tai và miệng dao động tiếng “da” . liên tục nhiều lần


Chú ý:Mổi lần dao động là mổi lần mở hơi từ miệng ra, âm thanh đều đặn và mau lẹ hơn


Thức 18: Song thốn kiếu:


Chân vẩn đứng tứ bình mã , hai chân rút vào trong và đứng lên chuyễn thành nhị tự kiềm dương mã. Song chưởng đánh bật ra phía trước, hai chưởng tâm úp xuống , miếng phát ra tiếng “úy”


Thức 19: Chế kiều:


Vẩn đứng như trên, Song chưởng kéo về đặt dưới mép tai như củ biến thành lưỡng quyền hạ chéo xuống bụng và đồng thời miệng phát ra tiếng “uy”


Chú ý: hai tay hạ chéo tay phải ngoài trái trong, lúc hạ xuống là lúc mở lưng khép ngực nên phát ra tiếng “uy”


Thức 20: Phân kim chùy (quyền)


Tiếp tục thức trên: Nâng song quyền từ dưới lên trước ngực ( Phải ngoài trái trong) , miệng ngậm mũi phát ra tiếng “hì” Tiếp theo hai quyền dạt mạnh ra hai bên trái phải


Chú ý: Khi hai tay quyền dạt ra cổ tay quyền phải co lại , ngực mở ra khoá mông rút hậu môn bụng ngậm


Thức 21: Nhị hổ tiềm tung:


tiếp tục thức trên: thu hồi hai chân lại cùng lúc hai tay thu hồi ra sau lưng về tư thế lập tấn đồng thời miệng thở ra tiếng “hà”


PHẦN II:


Thức 22: Phiến diện tý ngọ:


Từ thế đứng trên, đổ người về bên phải thành đinh tấn(Tý Ngọ mã thức), song quyền từ sau lưng đem lên phía trước, đồng thời đẩy lên ngang tầm mặt, hai cánh tay giao nhau( phải trong trái ngoài) hai đầu quyền cuộn vào trong , miệng ngậm kín, mũi thở ra thanh tiếng “ hì”


Thức 23: Khai cung xạ điêu:


Vẩn theo thế đứng trên, miệng thở ra tiếng “uy” kéo dài đồng lúc quyền trái đánh ra trước đầu quyền móc vô , quyền phải vẩn giử nguyên


Thức 24: Ngoại bàng thủ:


Vẩn theo thức trên, miêng ngậm kín mũi thở ra tiếng “u,u” hơi thở ra kéo dài, lúc này quyền phải biến thành chưởng ( chỉ pháp) chưởng tâm lật ra, quyền trái vẩn giữ nguyên tư thế móc vô, mắt vẩn nhìn về hướng quyền trái


Thức 25:Ngoại bàng hữu nhị:


Từ đinh tấn bước chân phải tới trước , cổ chân móc lại, quyền trái kéo về trước ngực, chưởng trái đẩy về bên phải đồng lúc quyền trái đẩy bật về bên trái , miệng ngậm kín mũi phát ra tiếng “ù” mắt nhìn về quyền trái


Thức 26: Nhu kiều nội bàng:


Tiếpthức trên, đổ người về trái thành đinh tấn bên trái, chưởng phải kéo về trước ngực đồng thời quyền trái cũng đưa về trước ngực, rồi từ từ đẩy ra về hướng trái, mũi phát ra tiếng “ù”( chú ý khi hai tay đẩy ra, chưởng phải đẩy ra va quyền trái cũng đẩy nhưng hai lực này co sự kéo đẩy tương hổ nhau trên hai tay)


Thức 27: Nội bàng chi nhị:


Tiếp thức trên, từ đinh tấn bên trái xoay qua đinh tấn bên phải hai tay co kéo về gần ngực, lật chưởng phải( chưởng phải vẩn giử nguyên) và quyền trái , đồng lúc đổ người về sau xoay ra phía trước miệng thở ra tiếng “thì”( chân trái sau hơn rùn xuống)


Thức 28: Đính Kiều:


Tiếp tục từ thức 27 chuyễn sang đinh tấn bên trái, quyền trái móc từ dưới lên (hơi co chỏ lại), chưởng phải ém xuống bên đùi phải, đồng thời miệng thở ra tiếng “hờ”( chưởng phải duỗi thẳng ngón trỏ hơi chỉ lên song song mặt đất)


Thức 29: Nhu kiều:


tiếp theo thức trên: than xoay về bên phải hướng ra phía trước thành tấn “nhị tự kiềm dương mã” thần rùn thấp xuống, miệng ngậm và phát ra tiếng” ù” đồng lúc phát ra tiếngchỉ chưởng phải và lưng quyền trái đẩy từ từ ra phía trước (2 tay đẩy ra không thẳng)


Thức 30:Già đầu:


Từ thức trên “nhị tự kiềm dương mã” than xoay về bên phải, đạp chân trái ra, mũi chân phải dời về bên phải 1 chút, đổi thành tấn âm dưong miệng phát ra âm “xè xè kéo dài”, đồng thời chưởng phải mở hết các ngón tay chưởng tâm úp và đẩy lên che trên đầu, tả quyền giử nguyên dụng lưc đẩy tới trước , mắt nhìn về phía trước


Thức 31: Thác chưởng:


Tiếp tuc từ âm dương tấn bên phải trở về trung bình tấn phía trước, quyền trái kéo về eo, chưởng phải kéo xuống ngang lổ tai phải ( bàn tay chưởng lật ngữa mũi chưởng hướng ra sau lưng) đồng thời miệng phát ra âm “xè xè” nhẹ nhẹ


Thức 32: Định kim kiều:


Tiếp tục từ trung binh tấn , quyền trái giử nguyên tại eo, chưởng phải hạ chỏ xuống và từ từ đẩy tới trước, miệng động thờ phát ra tiếng “hơ hơ”( lúc đẩy chưởng ngón cái co lại,4 ngón mở ra lúc đẩy cùng hơi thở ra)


Thức 33: Trắc thân thốn kiều:


Tiếp theo thức trên từ trung bình tấn, mũi chân trái sạt sang bên trái 1 chút, đồng thời xoay toàn thân ngã về bên trái, chưởng phải phóng ra trước tay thẳng chưởng tâm úp xuống, quyền trái vẩn giử ở eo, đồng thời miệng phát tiếng “xì”


Thức 34: Chế kiều:


Tiếp theo đổ người về vị trí giữa thành trung bình tấn, hữu chưởng kéo về vai và ém xuống thì nắm lại thành quyền(động tác này giống vuốt râu cổ tay xoắn vặn) đến ngang tầm bụng, quyền trái vẩn giử nguyên đồng thời miệng tiếng “xa”


Thức 35: Phân kim quyền:


tiếp thức trên: vẩn trung bình tấn, song quyền đưa lên giao chéo nhau trước ngực(phải ngoài trái trong) đồng thời gạt chéo xuống ngang tầm bụng hai tay ra hai bên cổ tay co(tay kim) lai lưng quyền hướng xuống đất tiếp theo miệng thở ra tiếng “ hà, hà, hà 3tiếng”


Thức 36:Phiến diện thập tự thủ:


Tiếp tục: từ trung bình tấn, chân phải bước tới 1 bước, chân trái bước lên theo, thân xoay về bên phải ; đổi thành đinh tấn phải đồng thời hai tay cuộn lên giao nhau trước mặt(phải ngoài trái trong) miệng lúc này ngậm mũi phát ra tiếng “u” (động tác này toàn thân đều tiến lên 1 bước)


Thức 37: Song già thủ:


tiếp tục thức trên: vẩn đinh tấn về bên phải 2 quyền tách ra đồng thời mở thành chưởng đẩy lên đỉnh đầu lòng chưởng trái úp trên chưởng phải che trên bách hội lúc này miệng phát ra tiếng “ù”


Thức 38: Bạch hổ hiến chưởng:


Vẩn đứng đinh tấn, song chưởng kéo vòng xuống trước ngực chưởng tâm lật ra ngoài và hướng ức chưởng lên trời như thế vuốt hổ trảo mắt hướng về bên phải miệng phát ra tiếng “uy”


Thức 39: Mãnh hổ bà sa:


Vẩn đinh tấn : hạ chỏ xuống ra sau như cào xuống , hai hổ trảo ra sau lưng ngực đẩy tới miệng phát ra tiếng “oà”


Thức 40: Định kim kiều:


Tiếp tục: đinh tấn chuyễn về bên trái rút chân phải về thằng hàng chân trái thành trung bình tấn, hai trảo từ sau lưng thu về trước đưa lên qua vai gần lổ tai rồi từ từ kéo xuống về nách đẩy ra đồng thời miệng thở ra tiếng “hà”(lúc hai chưởng đẩy ra thì cac đầu ngón tay mở xoè ra) mặt nhìn phía trước


Thức 41: Hổ tiến song ngâm:


Vẩn trung bình tấn: hạ thấp tấn xuống(mông bằng đầu gối), thu hai chưởng về bên vai gần hai lổ tai chưởng tâm lật lên trời lúc này hai chưởng rung động liên hồi và nhiều lần. miệng mở răng đóng phát ra tiếng “da,da,da”(lúc này 2 chỏ hướng phía trước)


Thức 42: Song thốn kiều:


Từ trung bình tấn thấp, nâng lên một chút đồng lúc nâng lên phóng 2 chưởng tới trước miệng phát ra tiếng “xì” ( hai chưởng tâm úp xuống)


Thức thứ 43: Chế kiều:


Rút song chưởng về hai vai bên cạnh lổ tai, ha hai chỏ xuống đồng lúc nắm các ngón tay lại thành quyền đẩy xuống ngang tầm bụng dưới (đan điền), miệng ngậm mũi phát ra tiếng “xa”


Thức 44: Phân kim quyền:


Tiếp tục kéo hai quyền về chéo trước ngực (phải ngoài trái trong) miệng ngậm mũi phát ra tiếng “u” đồng lúc phát tiếng thì hai quyền gạt qua hai bên, mắt nhìn thẳng ( tay quyền gạt ra co lại tay kim bụng ngậm dấu mông)


Thức 45: Nhị hổ tìm cung:


Tiếp tục vẫn trung bình tấn: song quyền kéo ra sau mông, đồng thời miệng phát ra tiếng “hà”


Thức 46: Ký lân bộ:


Tiếp tục từ trung bình tấn, chân trái bước lên trước 1bước dài thành trung bình tấn nhìn về bên phải, song quyền từ sau lưng đưa ra trước và cất lên giao nhau trước mặt phải ngoài trái trong , 2 quyền móc lại, mũi phát ra tiếng “u” (quyền trái bên trong đè lên quyền phải đẩy ra quyền phải bên ngoài móc kéo vô, hai lựcđối nghịch nhau)


Thức 47:Giáp mộc chùy:


Tiếp tục, từ trung bình chuyễn sang đinh tấn chân trái trước hai quyền kéo dạt về bên trái (phía trước), quyền phải ngữa lên và đè xuống ngang bụng, quyền trái vẩn để tầm mặt, xoay cổ tay ra trước hai quyền tâm đối xứng nhau, miệng phát ra tiếng “u” (hai tay quyền lúc này phải khép 2 chỏ vô trong và vận kình lên 2 tay khi phát ra tiếng)


Thức 48: Đề hồ kỉnh tửu


Tiếp tục bước chân phải lên 1 bước dài đinh tấn chân phải lên phía trước, đồng thời quyền phải co lên móc quyền ra sau vai, quyền trái hạ xuống ngoéo quyền vô ngực,miệng thở ra tiếng “hà”


Thức 49:Hoành cát thủ:


vẩn đứng đinh tấn trên: quyền phải đang ở trên vai biến thành chỉ chưởng hạ chỏ xuống khoát chỉ vòng xuống ra sau, quyền trái dang co trước ngực mở khoát ra sang trái, canh tay hơi duổi ra, mắt nhìn theo quyền trái, miệng ngậm mũi phát ra tiếng “ù”


Thức 50: Nội bàng thủ:


Vẩn đứng như trên: quyền trái co lại , chỉ chưởng phải từ từ kéo từ sau vòng ra trước, miệng phát ra 3 tiếng “u,u,u”


Thức 51: Nội bàng nhu kiều 1:


Tiếp theo thức trên : kéo chân phải về sau thành trung bình tấn, quyền trái và chỉ phải đem hạ xuống và từ từ đẩy tới trước (tả quyền vẩn quay vào trong tay kim) số lần đẩy ra ít nhất 5 lần, mỗi lần đẩy ra miệng phát ra tiếng “ù”


Thức 52: Nội bàng nhu kiều 2:


Từ thức trên: chuyễn thân về bên trái đổi thành âm dương tấn về bên trái, quyền trái và chỉ phải cùng đẩy ra như thức 51 số lần đẩy ra cũng như thức 51 và mỗi lần đẩy miệng phát ra tiếng “ù”


Thức 53: Già đầu:


Từ âm dương tấn bên trái: chuyễn sang bên phải, chân phải rùn thấp xuống quyền trái hướng về phía trước duỗi ra, chưởng phải mở cac ngón tay khít lại chưởng tâm che trên đỉnh đầu, miệng phat âm tiếng “da”


Thức 54: Thác thủ:


Từ thế đứng âm dương tấn chuyễn sang trung bình tấn: tả quyền kéo về eo, chưởng phải khoát vòng xuống rồi vòng lên vai, chưởng tâm ngữa gần mép tai mặt nhìn thẳng phía trước.


Thức 55: Hổ tiếu long ngâm:


Vẩn trung bình tấn: quyền trái tai eo duỗi thẳng tới trước (tay kim), chưởng phải co hết cở và rung động, miệng mở răng khít và phát ra tiếng “da, da,da”


Thức 56: Thốn kiều:


Từ trung bình tấn bước chân trái tới trước thành âm dương tấn quyền trái thu về eo đồng lúc chưởng phải kéo về nách phóng ra về bên phải xã hết vai, miệng phát thành tiếng “chi e”


Thức 57: Chế kiều:


Từ âm dương tấn chân trái: rút chân trái về thẳng hàng chân phải thành trung bình tấn quyền trái vẩn giử nguyên vị trí tại eo,, chưởng phải nắm lại thành quyền, kéo lên vai rồi đẩy xuống ngang tầm bụng, miệng phát thành tiếng “uy”


Thức 58: Phân kim chùy:


Vẩn đứng trung bình tấn: quyền phải kéo về đồng lúc quyền trái đưa lên trước ngực đan chéo nhau ( quyền phải ngoéo vào quyền trái ở trong) liền sau đó bật hai quyền ra hai bên, mũi phát ra tiếng “ù”


Thức 59: Thập tự thủ:


Từ trung bình tấn: rút chân phải vô 1 bước ngắn thành Nhị tự kiềm dương mã, đồng lúc song quyền kéo về đan chéo nhau trước cổ quyền tâm hướng vào trong ( quyền phải ngoài ngoéo vào , quyền tả trong đẩy ra) , miệng phát thành tiếng “ù”


Thức 60: Già thiên:


Vẩn đứng như trên:, song quyền đều mở thành chỉ chửng 1 ngón song chưởng vẩn đan nhau đưa lên tầm đầu, miệng thở ra tiêng “hà” ( lúc đẩy lên từ rùn bộ xuống)


Thức 61:Phi hồng liễm dực:


Vẫn đứng như thức trên: song chưởng từ trêm đầu kéo xuống từ từ ngang mặt thoát hai chưởng ra chia ra 2 bên đưa ra sau lưng, miêng phát thành tiếng “xì”( khi 2 chưởng chuyễn ra sau thi đồng thời chân tấn cũng nhón lên)


Thức 62 : Vi xà hiến trượng:


Tiếp tục thức trên: song chưởng từ sau lưng đồng đem lên tới trước đẩy lên trên tầm hai vai như đang nâng 1 vật nặng lên, miệng phát ra tiếng”uy”


Thức 63: Song già đầu:


Tiếp tục: song chưởng từ vai kéo xuống bên hông lập tức đem lên cuộn từ dưới vòng lên từ hai bên , chí hai bên góc đỉnh đầu chưởng tâm úp xuống, miệng phát thành tiếng “da, hả”


Thức 64: Bách kiều:


Tiếp tuc thức trên: song chưởng từ hai bên góc đỉnh đầu đưa xuống hông lập tức co lên vị trí hai bên ngực, hai chưởng tâm lật ngữa, miệng phát ra tiếng “hi”


Thức 65: Định kim kiều:


Tiếp tục thức trên: hai chưởng đang ở hai bên ngực , dựt lên trên vai rồi kéo về nách đẩy ra, đồng thời miệng phát thành 3 tiếng “hà, hà, hà”(lúc dựt lên tấn rùn xuống, đẩy chưởng ra thì 4 ngón xoè ngón cái co)


Thức 66: Song thốn kiều:


Tiếp tục: song chưởng thu về cac ngón tay khép lại rồi đẩy thẳng tới trước, miệng phát ra tiến “uy”


Thức 67: Thập tự thủ:


Tiếp tục: mở trung bình tấn , song chưởng thu về nắm lại thành quyền giao ché nhau, quyền phải ngoài trái trong ( quyền phải ngoéo vào quyền trái đẩy ra)


Thức 68: Phân kim quyền:


Vẩn trung bình tấn: thân rùn xuống thấp, song quyền trước ngực kéo tạy ra hai bên, miệng phát ra tiếng “ù”


Thức 69: Nhị hổ tìm tung:


Nhón người lên rút chân phải vào thành nhị tự kiềm dương mã, song quyền thu về ra sau làm 3 lần, mổi lần hít vào bằng mũi bụng , cac cơ hoành các huyệt đạo cự khuyết, khưu vĩ và miệng từ từ thở ra hít vào bằng mũi thở ra bằng miệng, hít vào sâu thở ra êm nhẹ


Thức 70: Kỉnh lễ thâu thức:


Sau khi thâu song quyền ra sau 3 lần và thở, hai tay đưa ra trước quyền trái đổi thành chưởng đẩy tới cùng lúc quyền phải, ban chân trái bước tới nhón mũi chạm đất chân sau hơi rùn xuống, rồi cuộn hai tay lại kéo về eo đồng lúc rút chạn trái vê sát chân phải là chấm dứt bài quyền